Thứ Bảy, 30 tháng 3, 2013


CHẾ ĐỘ NGÔ ĐÌNH DIỆM
VÀ VẤN ĐỀ BUÔN BÁN NHA PHIẾN


Phạm Trọng Luật

 
Như đã nói ở trên, việc buôn bán ma túy ở miền Nam Việt Nam trong những năm 1954-1975 là do chính quyền miền Nam chủ mưu: điều khiển việc nhập cảng, bảo trợ việc biến chế, gói thành gói, mở mang các tiệm hút và  phân phối cho khách hàng tiêu thụ.

Sách sử cho biết, tại miền Nam Việt Nam, từ năm 1950 cho đến tháng 4 năm 1975, việc buôn bán ma túy đều do các chính quyền Bảo Đại, chế độ cha cố Ngô Đình Diệm, chính quyền của Tướng Nguyễn Cao Kỳ và chính quyền quân phiệt Da-tô Nguyễn Văn Thiệu chủ trương bất kể gì là sản phẩm này có tác dụng làm nguy hại cho nòi giống, dân tộc và tiền đồ của đất nước.

Với những hành động vừa phi pháp, vừa bất nhân và dã man, vừa  hại nước hại dân, vừa phản dân tộc, các chính quyền miền Nam đã trở thành những tổ chức tội ác đối với dân tộc Việt Nam và đối với nhân dân thế giới. Chính vì vậy mà sử gia Alfred McCoy mới gọi chế độ cha cố Ngô Đình Diệm là“Triều Đại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu” (Diem Dynasty and the Nhu Bandits” (Alfred McCoy, The Politics of Heroin in Southeast Asia (New York: Harper & Row Publishers, 1972), p. 159). Phần trình bày dưới đây sẽ giúp cho độc giả có cái nhìn thấu đáo về vấn đề này.

Hơn một năm sau khi được Liên Mỹ - Vatican đưa về Việt Nam cầm quyền với cuơng vị là thủ tướng vào ngày 7/7/1954, Ngô Đình Diệm tổ chức cuộc trưng cầu dân ý gian lận vào ngày 23/10/1955 với dã tâm truất phế QuốcTrưởng Bảo Đại để tiếm quyền. Làm xong việc làm phản trắc này, ngày 26/10/1955, Ngô Đình Diệm tuyên bố miền Nam Việt Nam là nước Cộng Hòa Việt Nam và tự phong là Tổng Thống, rồi cho mở chiến dịch tuyên tuyền rầm rộ bài trừ các tệ đoan xã hội, trong đó có việc cấm hút thuốc phiện để làm bức bình phong che đậy việc thiết lập chế độ đạo phiệt Da-tô và gia đình trị đang được tiến hành.

Năm 1958, sau khi đã củng cố xong quyền lực, anh em nhà Ngô cho tái lập kỹ nghệ buôn lậu thuốc phiện sống, thiết lập các cơ sở biến chế và khuếch trương kỹ nghệ này bằng cách cấu kết với các tên đầu nậu Ba Tầu (trong đó có tên Mã Tuyên) ở Chợ Lớn để mở mang các tiệm hút và các tiệm bán sỉ bán lẻ sản phẩm này ở Sàigòn Chợ Lớn một cách công khai. Vào khoảng năm 1963, công việc làm ăn phi pháp này của chính quyền Diệm khá phát đạt. Riêng ở Chợ Lớn, con số tiệm hút hoạt động công khai lên đến 2,500 tiệm. Dưới đây là đoạn văn của tác giả Alfred McCoy viết trong cuốn The Politics of Heroin in South East Asia về việc làm bất chính hại dân hại nước này của chế độ cha cố Ngô Đình Diệm:

Triều Đại Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu:…Nhưng Ngô Đình Nhu quyết định  tái lập việc buôn bán nha phiến đê lấy tiền. Dù là hầu hết các tiệm hút ở Sàigòn đã đóng cửa cả ba năm rồi, hàng ngàn dân nghiện người Tầu và người Việt vẫn còn thèm muốn được hút trở lại. Ông Nhu cho người tiếp xúc với những lãnh tụ của các tổ chức có thế lực của người Tầu ở Chợ Lớn để mở lại các tiệm hút và thiết lập một hệ thống phân phối thuốc phiện nhập cảng lậu cho họ sử dụng. Chỉ trong vòng có mấy tháng, hàng trăm tiệm hút thuốc phiện này đã hoạt động trở lại, và năm năm sau, một phóng viên của tờ Time – Life lượng định ở Chợ Lớn có tới 2.500 tiệm hút thuốc phiện họat động công khai.

Để có thể cung ứng thuốc phiện đầy đủ cho khách hàng tiêu thụ, Ngô Đình Nhu thiết lập hai hệ thống đường bay khứ hồi từ vùng sản xuất thuốc phiện sống ở Lào về miền Nam Việt Nam. Hệ thống đường bay chính là thuê mướn mấy phi cơ nhỏ của hãng Hàng Không Lào, giao cho tên bất lương Bonaventure “Rock” Francisci, người Corse, điều khiển. Dù là tối thiểu có đến 4 chiếc phi cơ nhỏ chuyển vận thuốc phiện lậu từ Lao về miền Nam Việt Nam, nhưng chỉ có một mình cá nhân Francisci trực tiếp nói chuyện và thương lượng với Ngô Đình Nhu. Theo Trung Tá Lucien Conein, một cựu viên chức cao cấp CIA ở Sàigòn, mối liên  giữa Ngô Đình Nhu và Francisci về dịch vụ bất chính này khởi đầu vào năm 1958. Sau khi Nhu bảo đảm an toàn cho việc đem thuốc phiện về Sàigòn, hàng ngày, Francisci dùng đoàn máy bay Beechtcrafts hai động cơ chuyển vận món hàng này về  miền Nam Việt Nam..

  
Ngoài ra, Ngô Đình Nhu  còn phái nhân viên tình báo đến Lào với nhiệm vụ là chuyển vận thuốc phiến sống về miền Nam Việt Nam bằng phi cơ của Không Lực Việt Nam.

Trong khi Ngô Đình Nhu nói chuyện và thương lượng trực tiếp và cá nhân Francisci, Bác-sĩ Trần Kim Tuyến trực tiếp điều hành những toán điệp viên họat động ở Lào. Dù rằng, hầu hết các tài liệu mô tả Nhu như là một lý thuyết gia chính trị của chế độ Diệm, nhiều người trong nội bộ lại cho rằng ông tu xuất Trần Kim Tuyến mới thực sự là nhân vật chủ chốt của  kế hoạch làm ăn bất chính này. Đứng đầu tổ chức mật vụ có danh xưng tàng hình là “Sở  Nghiên Cứu Xã Hội và Chính Trị”, Bác-sĩ Tuyến chỉ huy một hệ thống tình báo rộng lớn bao gồm cả Lực Lượng Đặc Biệt (do CIA tài trợ), Sở An Ninh Quân Đội, và quan trọng  nhất là Đảng Cần Lao. Qua Đảng Cần Lao, Bác-sĩ Tuyến tuyền mộ điệp viên và cán bộ chính trị ở trong tất cả các cơ quan trong chính phủ và trong quân đội. Chính quyền Sàigòn kiểm soát chặt chẽ việc thăng thuởng, và chỉ những người cộng tác với Bác-sĩ Tuyến mới được thăng chức mau chóng. Nhờ có những khoản tiền kếch sù do việc buôn bán ma túy, ăn hôi lộ và các thứ tham nhũng khác, Sở Nghiên Cứu Xã Hội và Chính Trị của Bác-sĩ Tuyến có thể mướn hàng ngàn phu đạp xích lô, gái nhẩy tại các quán khiêu vũ và những người bán hàng rong ở ngoài đường phố để làm chỉ điểm viên cho Sở. Nhờ vậy mà ở mỗi một góc đường phố ở  Sàigòn-Cholon đều có chỉ điểm viên của sở mật vụ của Bác-sĩ Tuyến. Thay vì cho người theo dõi một đối tượng, Bác-sĩ Tuyên chỉ cần  ra khẩu lệnh cho các chỉ điểm viên tại các góc phố truyền tin tức của đối tượng cho nhau biết. Nhờ vậy mà Sở biết được đầy đủ những chi tiết về di chuyển, nơi họp mặt  và nội dung các cuộc họp của đối tượng. Một số các nhà quan sát  cho rằng Bác-sĩ Tuyến có hàng trăm ngàn nhân viên mật vụ  làm việc toàn phần và bán thời gian. Qua hệ thống mật vụ tuyệt vời như vậy, Bác-sĩ Tuyến có đầy đù hồ sơ với rất nhiều chi tiết của tất cả mọi nhân vật quan trọng của miền Nam Việt Nam, đặc biệt là có cả hồ sơ của ông Diệm, ông Nhu, bà Nhu và những hồ sơ này được gửi ra nước ngoài như là hình thức “bảo hiểm nhân thọ” của mỗi cá nhân.

  có trách nhiệm điều hành phần lớn hệ thống tình báo hải ngoại của chế độ Diệm, cho nên Bác-sĩ Tuyến có thể ngụy trang hay che giấu những  dịch vụ mua thuốc phiện ở Lào bằng những công việc bình thường trong hệ thống tình báo của ông.” 

Phần trích dẫn trên đây chỉ là có 2 trong số gần 7 trang nói về việc buôn bán ma túy trong thời chế độc cha cố Ngô Đình Diệm.

Đồng thời, chính quyền Ngô Đình Diệm còn biến miền Nam thành một trung tâm cung cấp thuốc phiện sống cho tổ chức Mafia quốc tế tại Marseille chuyên biến thuốc phiện sống thành bạch phiến rổi chuyển vận  sản phẩm này sang Bắc Mỹ để phấn phối cho khác hàng tiêu thụ ở Hoa Kỳ. Đây là một hệ thống tội ác quốc tế tay ba: (1) Nguồn thuốc phiện sống phát xuất từ miền Nam Việt Nam do anh em Ngô Đình Diệm cung cấp, (2) trung tâm biến chế thuốc phiện sống thành bạch phiến đặt cơ sở tại Marseille (Pháp) do anh em Antoine Guerini nguời Pháp điều khiển, và (3) trung tâm phân phố bạch phiến tại Bắc Mỹ dưới quyền điểu khiển của các tay trùm Carlos Marcello, Sam Giancana và Santos Traficante  Sự kiện này được hai tác giả Bradley S. O’ Leary và Edward Lee ghi nhận trong csách Vụ Ám Sát Ngô Đình Diệm (Tựa đề Anh ngữ : The deaths of the Cold War Kings, the assassinations of Diem & JFK) như sau.

Và năm 1958, khi Diệm – Nhu tái lập lưu thông thuốc phiện về Sàigòn, Francisci khó có thể hoan hỉ hơn vì nó đã làm sống lại nghề cũ của ông ta là vận chuyển thuốc phiện từ gốc sản xuất ở Lào đi thẳng về Nam Việt Nam bằng một phi đội máy may riêng của hắn. Nhưng thậm chí có thể kiếm được nhiều tiền hơn từ việc bán thuốc phiện trực tiếp cho hàng trăm ổ hút và hàng ngàn con nghiện ở Sàigòn. Việc sản xuất thuốc phiện ở các nơi khác trên thế giới - đặc biệt là Thổ Nhĩ Kỳ và Mexico – ngày càng thất thường và không chắc chắn vì liên tục bị pháp luật ngăn trở. Tình hình này chỉ làm lợi thêm cho Guerini bởi vì nó gia tăng thị phân ma túy của y. Chuyện này xẩy ra như thế nào?

Nhu và Rock Francisici đã thực hiện một hợp đồng phân phối cơ bản. Francisci sẽ vận chuyển thuốc phiện đến Sàigòn cho các ổ hút của Nhu nhưng hắn còn chở nhiều thuốc phiện cho các điểm thả dù ở Sàigòn. Tại đây, thuốc phiện sẽ được máy bay vận tải chở sang các xưởng chế biến ở Marseille. Tại Marseille, thuốc phiện sẽ được chế biến thành bạch phiến có chất lượng cao để bán cho các trùm ma túy ở Mỹ như Santos Trafficante, Carlos Marcello, và Sam Giancana. Tất cả đều làm giầu trong chuyện này, và ai cũng thấy được rằng đó là chuyện làm ăn rất an toàn, bởi vì Nhu có thể được coi như một thứ Bộ TRưởng Tư Pháp của Nam Việt Nam, ông không phải ưu tư hay trả lời trước bất cứ một cơ quan thi hành pháp luật nào. Ông ta là luật pháp, và ông ta sử dụng sức mạnh này để đảm bảo cho Francisci và khách hàng của ông ở Marseille một nguồn cung cấp thuốc phiện ổn định để sản xuất bạch phiến. Một vụ làm ăn ngon lành.

Với vị trí quyền lực trong chính phủ Nam Việt Nam, Nhu có thể đảm bảo rằng các máy bay chở đầy thuốc phiện của Francisci (đội lốt vận tải “ngoại giao”) có thể bay từ Lào đáp xuống Sàigòn và chuyển hàng xong hết mà không gặp nhiểu kiểm tra phiền toái. Thậm chí Nhu còn tăng năng suất đều đặn trong hai năm 1961 và 1962 bằng cách huy động Phi Đội Vận Tải số 1 của riêng ông (chuyên hoạt động tình báo trên không [thỉnh thoảng bay phối hợp với CIA]) vào việc đó. Giữa năm 1958 và 1963, Sàigòn thực sự trở thành kho hàng chứa thuốc phiện thô mà phần lớn sẽ chuyển tới Marseille để cuối cùng thỏa mãn nhu cầu của con nghiện bạch phiến Mỹ.

Tuy nhiên, Nhu còn có những khuyến khích khác cho hợp đồng béo bở này. Trong lúc các máy bay vận tải thuê riêng của Francisci - thường gọi là Hàng Không Thương Mại Lào – hàng ngày chở thuốc phiện tới Sàigòn mà không bị luật pháp gây rắc rối, thì những tay cung cấp nhỏ hơn không được an toàn như vậy. Lực lượng cảnh sát của Nhu sẽ lập tức hỏi thăm họ vì đã dám lấn sấn (tới  phạm vi hoạt động) của Francisci.

Anh em Guerini không thể nào phấn chấn hơn trước hợp đồng của Francisci, và cũng không thể hài lòng hơn về Nhu vì ông đã giúp thực hiện được hợp đồng đó. Hợp đồng này giúp cho anh em Guerini trở thành những ông trùm ma túy toàn cầu vào cuối thập niên 1950 đầu thập niên 1960, đồng thời nó tạo ra một liên minh tội phạm vững như bàn thạch giữa Nhu và tập đoàn Marseille. Nhu, Diệm và toàn bộ dòng họ Ngô Đình ai cũng nổi lên giầu có khác thường nhờ vào liên minh này (trong khi vẫn  kiếm được nguồn tài chính bất minh cần thiết cho cảnh sát và tình báo). Quan trọng hơn thế, anh em tội phạm Guerini thậm chí còn tích lũy được nhiều của cải hơn, và những khách hàng chủ yếu của họ - Mafia Mỹ cũng vậy.

Cho nên, về căn bản, tập đoàn Marseille, Mafia Mỹ, và chính quyền Ngô Đình Diệm đã biến thành nững đối tác làm ăn của nhau trong mạng lưới ma túy toàn cầu. Có nghĩa là tiền tỉ, tiền tấn chảy vào túi người nào có dinh dáng, dĩ nhiên là thế. Và nguồn suối mạnh mẽ không ngừng phát sinh ra tiền bạc và sức mạnh này chính là Ngô Đình Nhu.”

 
“Giữa tất cả nhũng điều đó, chúng ta có tập đoàn bạch phiến quốc tế, đặt tổng hành dinh tại Marseille, Pháp, và do anh em Guerini người Pháp điều hành. Nguồn cung phần lớn nguyên liệu thuốc phiện cho họ thông qua Nhu và kẻ trung gian là Rock Francisci, cũng là người Pháp.

Bây giờ chúng ta gặp một người Pháp nữa, giống như Rock Francisci, đã sống gần như suốt đời ở Đông Nam Á. Người này la Matthew Franchini. Bề ngòai ông ta được mô tả như một thương gia trọng nguyên tắc và là chủ khách sạn đáng kính (ông ta sở hữu khách sạn Continental nổi tiếng ở Sàigòn). Tuy nhiên, sự thực thì Franchini là bộ não đằng sau các chuyến hàng thuốc phiện của Rock Francisci từ Sàigòn sang các lò bạch phiến ở Marseille. Tại sao điều này quan trọng thế? Vì Franchini là một khâu vô giá trong đường dây chỉ huy của thế giới ngầm Marseille, nếu không muốn nói là đương dây chỉ huy tập đoàn bạch phiến toàn cầu. Franchini cung cấp cho Marseille sản phẩm morphine  vốn được Rock Francisci chở thoải mái về Sàigòn (những chuyến này do Nhu bảo kê).

Ngoai ra, lại cón có  Tòa Đại Sứ Việt Nam tại Lào, Trần Kim Tuyến và bọn Cần Lao tin cẩn, người phụ trách chuyển vận thuốc phiện từ Lào về  Sàigòn nữa.

Theo sự hiểu biết của người viết, tất cả những tên đầu sỏ của hệ thống tổ chức tội ác quốc tế này đều là  những người thấm nhuần triệt để Ki-tô giáo.

Có thể do việc làm ăn bất lương này, anh em ông Ngô Đình Diệm mới bắt đầu kết thân sống chết với tên Mã Tuyên, một tên đầu nậu khét tiếng trong bang Triều Châu ở Chợ Lớn. Xin nhắc lại, cũng vì ma túy có tác dụng làm suy yếu sức khỏe của con người, làm cho gia đình những người nghiện khốn đốn điêu linh, và làm cho các quốc gia có nhiều người nghiện trở nên suy nhược, cho nên hầu như tất cả các quốc gia trên thế giới đều nghiêm cấm bán sản phẩm này cho quảng đại quần chúng, và chỉ cho phép được sử dụng trong phạm vi y khoa mà thôi. Cũng vì thế mà tác giả Alfred W. McCoy mới gọi chế độ đạo phiệt gia đình trị Ngô Đình Diệm là “Triều Đại Ngô Đình Diệm và Băng Đảng Ăn Cướp Ngô Đình Nhu = Diem’s Dynasty and the Nhu Bandits.”  Alfred W. McCoy, Ibid., p. 159.

 
Phạm Trọng Luật, USA

[Trích đoạn từ Chương 91 của “Giáo hội La Mã - Lịch sử và Hồ sơ Tội ác”, Phạm Trọng Luật, USA, ngày 1 tháng 6 năm 2011]

 

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2013


GIỚI THIỆU TÁC PHẨM “NHÚC NHÍCH THÌ CHẾT”

 
Lý Như Thế

Kill Anything That Moves – The Real American War In Vietnam
Tác giả: Nick Turse
Nhà Xuất bản: Metropolotain Books, New York, 2013

 
Tác phẩm “Kill Anything That Moves” và Tác giả Nick Turse

Tác phẩm 370 trang này đoạt giải thưởng Ridenhour của National Press Club năm 2009, nguyên là luận án Tiến sĩ tại Đại học Columbia của nhà báo kiêm sử gia Nick Turse. Cuốn sách gồm một Nhập đề, bảy Chương và một Kết luận. Cầm cuốn sách lên thì thấy tựa sách được đọc như một mệnh lệnh cho người lính Mỹ khi đến Việt Nam: “Nhúc nhích thì giết!”. Để cuốn sách xuống sau khi đọc thì thấy đúng như vậy. Qua sách nầy, tác giả Nick Turse đã chứng minh một cách “bất khả tư nghì” rằng mệnh lệnh dã man ấy là một chính sách, một chiến thuật chính thức của quân đội Mỹ và đã được áp dụng từ cấp tướng đến người lính G.I., từ quân trường ở Mỹ đến xóm làng ở Việt Nam. Chủ đề của cuốn sách là một chứng minh rằng cuộc thảm sát từ 350 đến 500 thường dân ở Mỹ Lai ngày 16 tháng 3 năm 1968 không phải là một sơ xuất biệt lệ của quân đội Mỹ.
Nhiếp ảnh gia chính thức của Lục quân Mỹ Ron Haeberle đã theo chân Đại đội Charlie
đến Mỹ Lai (Quảng Ngãi) vào ngày định mệnh 16/3/1968. Anh đã ghi được vào ống kính
hầu như toàn bộ thảm kịch Mỹ Lai. Những tấm hình nầy, sau đó, được dùng làm
vật chứng trong cuộc điều tra dài 5 tháng của Tướng William R. Peers.
Điều nầy có thể thấy ngay trong Chương 2: “Theo hồi ký của tướng Westmoreland, (tướng) Mac Arthur đã “thúc dục tôi hãy chuẩn bị để luôn luôn có đầy đủ trọng pháo vì dân Á Đông rất sợ trọng pháo” và đưa ý kiến là Westmoreland có thể phải xử dụng một “chiến thuật đốt sạch đất đai” tại Việt Nam.” (trang 61). Lời chỉ đạo nầy từ một anh hùng của Đệ nhị Thế chiến có thể coi như thể hiện tâm cảnh (mindset) của tướng Westmoreland trước khi nhậm chức Tổng Tư Lệnh quân đội Mỹ tại Việt Nam để “đếm xác” (body count) dân Việt trong tinh thần kỳ thị chủng tộc dứt khoát.
Phương pháp làm việc của tác giả Nick Turse vừa có tính cách sử học vừa xã hội học, thích ứng với mội trường hàn lâm của một Đại học nổi tiếng như Columbia. Tác giả xử dụng hồ sơ giải mật của Bộ Quốc phòng Mỹ, những báo cáo từ các cuộc điều tra của Criminal Investigation Division (Sở Điều Tra Tội Ác) của Bộ Quốc phòng, đặc biệt là báo cáo của Vietnam War Crimes Working Group (Nhóm Điều Tra Tội Ác Chiến Tranh ở Việt Nam) được Pentagon thành lập sau vụ thảm sát ở Mỹ Lai, cộng với hơn 100 cuộc phỏng vấn ở cả hai phía: nạn nhân Việt Nam và quân nhân Mỹ. Tất cả để đúc kết lại thành một bức tranh bi thảm về sự tàn phá tận cùng của chiến tranh mà ngay cả Picasso có sống lại cũng không thể vẽ thêm một Guernica thứ hai.
Thống kê tổng quát cho thấy cuộc chiến Việt Nam từ năm 1955 đến 1975 đã gây ra cho phía Nam Việt Nam 254,000 người chết và 783,000 người bị thương. Bắc Việt Nam có khoảng 1.7 triệu người chết và vẫn còn hơn 300, 000 người mất tích. Trong khi phía Mỹ có hơn 58,000 lính chết và 304,000 lính bị thương. Ở cao điểm của cuộc chiến năm 1969, nước Mỹ đã có 540,000 quân trên đất liền, khoảng 150,000 quân trên biển và trong các căn cứ ở Nhật, Đài Loan, Phi, Thái, Mả Lai, … chưa kể các quân đội Đồng Minh (Đại Hàn, Phi, Thái, Úc, Tân Tây Lan, …). Không quân Mỹ thả gần 7 triệu tấn bom (so với gần 3 triệu tấn bom thả trên Đức quốc trong Đệ nhị Thế chiến) và khoảng 70 triệu lít chất độc khai quang mà ảnh hưởng có thể tác hại đến 100 năm trên con người và thiên nhiên.
Với những vũ khí và quân lực đằng đằng sát khí như vậy, người thường dân Việt Nam đã phải chịu một tai họa thống khổ đến mức nào?
Bảy chương sách của Nick Turse mang câu trả lời với những tựa đề hãi hùng:
(1)   Cuộc thảm sát ở Triệu Ái
(2)   Một Hệ Thống Đau Khổ
(3)    Tàn sát Quá Độ
(4)    Một Loạt Những Hung Bạo
(5)    Khốn Khổ Vô Bờ
(6)    Tên Khùng, Ông Tướng “Săn Cộng” và Tên Đồ Tể của Vùng Châu Thổ
(7)    Những Tội Ác Chiến Tranh Biến Đi Đâu Rồi?
Không phải là một tình cờ mà nhận định của Alvin Tofler: “Nếu nguyên tắc căn bản của nền kinh tế kỹ nghệ là sản xuất hàng loạt thì nguyên tắc căn bản của chiến tranh thời kỹ nghệ hoá là tàn phá hàng loạt” (War and Anti-War, trang 38) đã trùng hợp sát sao với nhận định của tác gỉa Nick Turse ở trang 204: “sự tàn sát theo chuẩn mức kỹ nghệ đã được áp dụng khoảng thời gian Thiếu tướng Julian Ewell cầm quân ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long”. Tại Việt Nam, chính quyền Mỹ đã thực thi một cuộc tàn phá hàng loạt một cách có hệ thống trong suốt cuộc chiến với những mô tả đáng kể nhất là trong hai chương 1 và 6 mà người đọc không thể bỏ qua.
Chương 1: Từ thời kỳ được huấn luyện ở quân trường tại Mỹ (Fort Benning, Camp Lejeune, tiểu bang Georgia) tinh thần kỳ thị chủng tộc (như của tướng Mac Arthur) đã được nhồi sọ tối đa để giúp người tân binh Mỹ có thể giết kẻ thù – người Việt Nam – mà không hối tiếc hay ân hận. “Cựu chiến binh Wayne Smith nhớ lại là các huấn luyện viên không bao giờ gọi người Việt Nam là “Vietnamese”. Họ gọi (bằng những chữ tiếng lóng hạ cấp như) “dinks, gooks, slopes, slants, rice-eaters”, những chữ không còn mang ý nghĩa tượng trưng cho con người nữa. Cái thâm ý là coi người Việt Nam thấp hơn cả giống người.” (trang 28). Như vậy thì có thể tự do để vâng lệnh giết một cách vô trách nhiệm như lời khuyên của một vị Tuyên úy Tin Lành: “Người lính tự do nhất là người lính sẵn sàng tuân lệnh cấp trên. Khi bạn tuân một mệnh lệnh hợp pháp thì bạn không sợ, không lo gì cả.” (trang 30) Vấn đề là không có ai định nghĩa “mệnh lệnh bất hợp pháp” là gì. Khi Trung úy Maynard quăng lựu đạn xuống hầm một căn nhà trong làng Triệu Ái, “Trung úy Bailey cho biết có con nít trong hầm ấy. Và Trung úy Maynard trả lời: “Kệ mẹ nó, rồi tụi đó lớn lên thì cũng trở thành Việt Cộng thôi.” (trang 34). Điều kinh khủng là người lính Mỹ không phân biệt được kẻ thù và đồng minh nên họ chỉ biết khi thấy “nhúc nhích thì giết”. Ở một cấp cao hơn, các sĩ quan tốt nghiệp quân trường West Point cũng có một hiệp hội ngầm (mà ai cũng biết) có tên là West Point Protective Association (WPPA) để họ bảo vệ lẫn nhau khi bị điều tra hay khi phải ra trước toà án quân sự như trường hợp tướng Julian Ewell dưới đây.
Chương 6: Hồ sơ của Trung Sĩ Roy Bumgarner và Tướng Julian Ewell là hai thí dụ điển hình.
“Trung sĩ Bumgarner thuộc Lữ đoàn Dù 173, Sư đoàn Kỵ binh Đệ Nhất đóng tại Bình Định (năm 1968) nổi tiếng với thành tích giết 1,500 kẻ thù. Có khi toán quân 6 người của ông còn giết nhiều kẻ thù hơn cả tổng số “đếm xác” của toàn thể tiểu đoàn 500 người của ông.” (trang 192). Thành tích này đã làm cho ông mang biệt danh là “The Bummer” (Tên Khùng). Tên Khùng tuy khùng nhưng không dại vì sau khi giết một thường dân (dù là đàn bà, con nít), y lại nhét vào trong xác chết một qủa lựu đạn “made-in-China” hay một khẩu súng Nga. Hậu quả là số “Việt Cộng” bị Trung sĩ Bumgarner giết lên rất cao. Điều không may là các bạn đồng ngũ đã thấy hành vi vô đạo nầy và họ báo cáo lên cấp trên. Tên Khùng bị điều tra và bị đưa ra toà án quân sự. Tên Khùng bị xử có phạm tội nhưng là tội “sát nhân không mưu tính” (unpremeditated murder) và nhờ vậy y đã không vào tù, dù chỉ một ngày (trang 196). Một nhân chứng của vụ án, Peter Berenback, sau khi giải ngũ đã đọc được trong nhật báo New York Times ngày 31/3/1972 một bản tin ca ngợi Trung sĩ Bumgarner với tấm hình Tên Khùng ôm một em bé Việt Nam một cách bảo bọc. Berenback bèn gửi một lá thư đầy giận dữ gọi Bumgarner là “kẻ sát nhân”. Nhưng tờ báo đầy uy tín nầy đã không phản ứng. Berenback gửi một thư khác cho Dân biểu Peter Frelinghuysen. Ông nầy chuyển lá thư cho Đại tá Murray Williams ở Pentagon. Rồi nội vụ không còn được nói đến nữa!
Trường hợp tướng Julian Ewell đáng chú ý là vì sự nghiệp của ông tại Việt Nam thành công rực rỡ chỉ nhờ một yếu tố: Khả năng làm tăng con số kẻ thù bị giết (“body count”). Tháng 2 năm 1968, khi mới nhận chức Tư lệnh Sư đoàn 9 vùng Đồng bằng sông Cửu Long (vùng 4 Chiến thuật), các phi công trực thăng của ông đã để ý trò chơi săn người của ông khi ra lệnh cho pháo thủ trên trực thăng bắn bất kể vào người nông dân đang cày bừa trên đồng lúa. Đặt cơ sở trên chiến tranh kỹ thuật (“technowar”) của bộ trưởng Mac Namara, “thống kê đếm xác là thước đo thành công quan trọng nhất” cho tướng Ewell (trang 206). Hãy đọc “tiến bộ” của tướng Ewell trong 2 năm 1968-1969 theo thước đo tỉ lệ chết giữa địch và ta (Việt Cộng và Mỹ): Trước khi ông nhậm chức, tỉ lệ đó là 1/8: Cứ một người lính Mỹ chết thì có 8 người lính Việt Cộng chết. Đây đã là một tỉ lệ khá cao so với các đơn vị khác. Qua tháng 7-1968, sau 5 tháng dưới quyền tướng Ewell, tỉ lệ nầy tăng lên thành 1/14.
Sau 5 tháng, tướng Ewell mở đầu chiến dịch “Speedy Express” vói tỉ lệ 1/24. Ba tháng sau tỉ lệ là 1/68. Một tháng sau (4-1969), tỉ lệ tăng lên gần gấp đôi: 1/134. Câu hỏi là trong 134 người Việt Nam được “đếm xác” này có bao nhiêu thường dân? Vì (1) sự chênh lệch quá xa giữa số xác Việt Cộng quá cao so với số võ khí thu lượm quá thấp (2) trước hoả lực kinh hồn của quân đội Mỹ, quân đội Việt Cộng cũng đủ khôn ngoan để rút đi nơi khác, để lại người dân vô tội trong vùng hoả tuyến.
Khi được hỏi làm sao họ phân biệt được kẻ thù trên đồng ruộng để nã súng bắn, phi công Cobra của chiến dịch Speedy Express trả lời: “Kẻ nào thấy trực thăng mà bỏ chạy là kẻ thù.” hoặc “Kẻ nào mặc bà ba đen là Việt Cộng.” Từ đó tướng Ewell mang hỗn danh là “tên đồ tể của vùng Châu thổ.” Với “tiến bộ” từ 1/14 lên 1/134, tướng Ewell được vinh thăng Trung tướng và năm 1970, ông được gửi qua làm cố vấn quân sự cho phái đoàn Mỹ đang tham dự Hoà đàm ở Paris.
Nhưng một quân nhân vô danh ký tên là “Một Trung sĩ Ưu tư” đã gửi thư cho tướng Westmoreland, lúc nầy đã trở thành Tham mưu Trưởng Liên quân, để tố cáo đầy đủ chi tiết và tên tuổi, chức vụ trong cuộc tàn sát khủng khiếp của chiến dịch Speedy Express. Lá thư kết luận một cách chắc nịch “dù các con số của tôi chỉ đúng 10%, mà tôi tin là cao hơn, thì 120 đến 150 tử vong đã tương đương với một Mỹ Lai mỗi tháng trong hơn một năm trời.” (trang 215). Nhưng rồi lá thư nầy cũng bị rơi vào quên lảng như số phận của hàng ngàn thường dân Việt Nam đã bị thảm sát.
Đọc xong trang cuối cùng, gấp lại cuốn sách, chắc người đọc nào cũng thấy hãi hùng và đầy lòng thương cảm. Riêng người điểm sách còn rút ra được ba ý nghĩ riêng cho mình:
■ Đây là một cuốn sách rất khó đọc cho cả người Việt lẫn người Mỹ vì nó trình bày một cách trần truồng sự bi thảm tận cùng của một cuộc chiến vẫn còn vang vọng trong tim óc chúng ta.
Với những cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hoà đã từng sát cánh chiến đấu với quân đội Mỹ và bây giờ đã và đang xây dựng trên đất Hoa Kỳ những tượng đài để tưởng niệm và vinh danh “mối tình chiến hữu Việt-Mỹ” thì cuốn sách nầy lại càng khó đọc hơn vì những sự kiện kinh hoàng được trình bày một cách trung thực, khoa học và có hệ thống đến mức, nếu còn là một người Việt Nam lương thiện và yêu nước, thì không thể chối cãi được và không nên lẫn tránh chúng.
Tượng đài Chiến sĩ Việt-Mỹ tại California - Một phụ nữ mặc “bà ba đen” bị hỏi cung, 1968
■ Còn với những “cậu ấm bất mãn” ở Việt Nam, nhất là ở thủ đô Hà Nội, đang ngưỡng mộ và hướng vọng về Hoa Kỳ như một mẫu mực chính trị tương lai cho đất nước thì cuốn sách nầy là một nhắc nhở sâu sắc cho họ rằng chính trị Mỹ xuất sinh từ văn hóa Mỹ, trong đó, từ thời lập quốc, đã có những tay chăn bò được vinh danh là những anh hùng … bắn chậm thì chết. Và hơn 40 năm trước, đã có những đồng bào “Việt Cộng mặc áo bà ba đen” của các “cậu ấm” lúc bấy giờ ở miền Nam xa xôi, vốn chỉ là những thường dân run rẫy, nhưng vẫn bị thảm sát vì dòng chảy văn hóa “bắn chậm thì chết” đặc thù nầy!
■ Cuối cùng, nội dung cuốn sách nầy còn là một bài học đau thương cho những ai rước giặc vào nhà thì phải biết hậu quả tai hại sẽ không thể lường được dù giặc có khoe đầy giá trị tự do, dân chủ, nhân quyền, … như khi Phó Tổng thống Lyndon Johnson ngoài miệng thì giả vờ ca ngợi Tổng thống Diệm của miền Nam là “Churchill của châu Á” nhưng sau lưng thì gọi Việt Nam là “một nước nhỏ nhoi bèo bọt” (trang 49). Nói cho cùng thì Churchill cũng không tốt đẹp gì để hãnh diện được so sánh vì ông ta là một đại thực dân da trắng đã ôm khư khư cái đế quốc “mặt trời không bao giờ lặn” của Anh quốc, dù Gandhi và hàng triệu dân Ấn Độ đã xã thân đấu tranh cho tự do và độc lập của đất nước mình.

Tôi viết bài điểm sách nầy để tưởng niệm anh Hugh C. Thompson, Jr., một Đại úy phi công trực thăng của quân đội Mỹ, người đã can đảm cố gắng ngăn chặn, tuy bất thành, cuộc thảm sát hãi hùng ở Mỹ Lai, và sau đó, bất chấp mọi chống đối của bộ máy thư lại Mỹ, đã kiên trì tố cáo thành công trước công luận tội ác của chính các cấp trên của mình.
Ba mươi năm sau cuộc thảm sát, anh được trao tặng huy chương cao quý nhất của Lục quân Mỹ và Quốc hội Hoa Kỳ ghi nhận anh “đã nêu gương ái quốc trong ý nghĩa cao cả nhất”. Cũng trong năm 1998 đó, anh cùng với bạn đồng ngủ là Lawrence Colbourn trở lại Mỹ Lai thăm bà Phạm Thị Nhanh, một trong hai nạn nhân sống sót trong vụ thảm sát Mỹ Lai 30 năm trước.
Tôi nghĩ rằng cùng với tên chị Đặng Thùy Trâm, tên anh Hugh Thompson xứng đáng được người Việt Nam đặt cho một con đường lớn ở thành phố Quảng Ngãi vì lòng nhân đạo và tính cương trực của anh đã vượt lên trên mọi rào cản ý thức hệ, chủng tộc, văn hoá.Lý Như Thế


Nhận định về tác phẩm “Kill Anything That Moves
của ba nhà nghiên cứu Mỹ về chiến tranh Việt Nam:

FRANCES FITZGERALD (giải thưởng Pulitzer năm 1973, tác giả của Fire in the Lake):
Hơn mọi ai khác, Nick Turse đã chứng minh – với chứng cớ - một chuyện không còn có thể bàn cãi: Sự tàn bạo của quân đội Mỹ ở Việt Nam không phải là thỉnh thoảng hay sơ xuất mà là chuyện thường ngày và là một hậu quả không thể tránh của chính sách quân sự của nước Mỹ.

DANIEL ELLSBERG (Cựu Thủy Quân Lục Chiến, nhân viên Bộ Ngoại Giao, phân tích gia của RAND, người tiết lộ Hồ sơ Ngũ Giác Đài Pentagon Papers):
Nghiên cứu kỹ càng, Nhúc Nhích Thì Giết là một tường trình đầy đủ nhất cho đến ngày nay về tội ác chiến tranh do quân đội Mỹ vi phạm ở Việt Nam và những cố gắng để che dấu của các cấp chỉ huy cao nhất của quân đội. Đây là một phần quan trọng của lịch sử.”

MARILYN YOUNG (Tác giả The Vietnam Wars, 1945-1990)
“Cuốn sách “Nhúc Nhích Thì Giết” của Nick Turse là một tài liệu căn bản, một tường trình hùng hậu và đầy xúc động đến ngay vào vùng tim đen của cuộc chiến tranh ở Việt Nam: Sự tàn sát thường dân một cách có hệ thống, chứ không là một sơ xuất, là một thủ tục hành quân đúng tiêu chuẩn. Cho đến ngày nào bản tường trình lịch sử nầy đưọc thừa nhận, chính sách nầy vẫn sẽ được tiếp tục dưới hình thức nầy hoặc hình thức khác trong những cuộc chiến mà nước Mỹ sẽ tiếp tục dính vào.”


 

ĐẢNG CẦN LAO NHÂN VỊ VÀ CÁC TỔ CHỨC NGOẠI VI

 
Trần Văn Đôn

 
Trích trong "Việt Nam Nhân Chứng" (trang 141-144)
Hồi ký của Trung Tướng Trần Văn Đôn
Quyền Tổng Tham Mưu Trưởng QĐVNCH / 1963
Tổng Tư Lệnh QĐVNCH kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng / 1963-1964
Thượng Nghị Sĩ VNCH / 1967
Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng Chính quyền VNCH 1974 - 1975
 
    Trung Tướng Trần Văn Đôn – Quân nhân và Sinh viên chào mừng Tướng Đôn ngày 2-11-1963

 
Ông Ngô Đình Diệm khi ổn định được tình thế thì nắm toàn quyền mà không phân  quyền cho Tư Pháp và Quốc Hội. Trong Quốc Hội thì ông bà Ngô Đình Nhu và một số người thân tín mà họ đưa vào bằng đường lối bầu cử gian lận nắm then chốt lèo lái. Tư Pháp thì bổ nhiệm những người dễ sai biểu. Hành Pháp, Tư Pháp, Lập Pháp ở trong tay, vì vậy càng ngày Ngô Đình Diệm càng ngày trở thành độc tài đảng trị.

Ngày 17 tháng 4 năm 1955,  trước  Quốc Hội Lập Hiến,  Ngô Đình Diệm trình bày  chính sách Nhân Vị mà Ngô Đình Nhu học được  từ triết lý  Nhân vị của E.Mounier .

Ông Ngô Đình Nhu muốn cho đảng Cần Lao Nhân Vị là đảng duy nhất của quốc gia, ông lý luận rằng chính quyền phải dựa  trên một đảng chính trị mạnh, và đảng này phải có một triết lý phù hợp tinh thần tôn trọng giá trị con người, mỗi con người được coi như một huyền nhiệm tối thượng không thể thay thế được gọi là nhân vị. Để đối đầu với lý thuyết Cộng Sản vốn không coi mỗi con người có giá trị do đó không có nhân vị, lý thuyết Nhân Vị trên nguyên tắc là lý thuyết tốt, tiếc rằng khi khai triển để trở thành căn bản cho sự hoạt động của một đảng phái có những vấn đề thực tế của nó mà ông Ngô Đình Nhu và các cộng tác viên của ông không vượt qua được . 

Đảng Cần Lao Nhân Vị đang từ là một lý thuyết chống Cộng đã biến thành một phương tiện để được vào hàng ngũ những người nắm chánh quyền .  Để trực tiếp nắm vững đảng,  anh em  Ngô Đình Diệm dùng những cán bộ là các nhân viên cao cấp và người thân tín. Những cán bộ này được hưởng nhiều quyền lợi. Thời đó có một nguyên tắc truyền miệng mà  những người muốn có quyền hành đều cố gắng đạt cho được, đó là nguyên tắc phải có ba chữ C đứng đầu, nghĩa là phải :

- Cần Lao,
- Công Giáo,
- Centre VietNam ( tức là người miền Trung ).

Cần Lao Nhân Vị kiểm soát luôn Quân Đội qua Đại Tá Lê Quang Tung, chỉ huy trưởng Lực Lượng Đặc Biệt dưới quyền trực tiếp của Ngô Đình Nhu. Cán bộ Cần Lao kiểm  soát tất cả các tổ chức kinh tế của chính phủ. Cần Lao có một Lữ đoàn quan sát viên và liên lạc viên : Nửa dân sự, nửa quân sự gồm 35.000 đảng viên trực thuộc thẳng Ngô Đình Nhu. Cảnh sát bí mật, thường được gọi là Mật vụ hoạt động song song với các cơ quan tương đương chính quyền, nhưng cán bộ Cần Lao không báo cáo theo hệ thống chính quyền  mà báo cáo thẳng với trung ương nên không ai biết người có trách nhiệm.

Rất nhiều nơi các Tỉnh trưởng, Quận trưởng, Ty trưởng sợ cán bộ Cần Lao, dân chúng lại càng sợ Cần Lao hơn nữa, vì vậy mà họ lộng hành tác oai tác quái.

Cán bộ của Đảng Cần Lao NhânVị được tổ chức theo từng tổ, một tổ từ 5 đến 25 đảng viên, sinh hoạt ngay tại cơ quan làm việc của mình. Đảng viên trong tổ gặp nhau hằng ngày.

Tổ chức Đảng Cần Lao Nhân Vị hầu như có mặt trong khắp các cơ quan song song với tổ chức hành chánh từ thị xã đến trung ương với đảng viên hầu hết là các ông công  chức từ cao cấp trên trung ương xuống đến cac cấp thấp ở các thị xã.

Về mặt nhân dân, ông Ngô Đình Cẩn tổ chức Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia.

Cũng theo hệ thống Trung ương xuống đến ấp, phường. Lãnh đạo phong trào là ông Ngô Đình Cẩn và các viên chức cao cấp " 3C " ở trung ương. Tại các địa phương thì các công chức địa phương, đa số ban chấp hành là công chức " 3C "; ngoài ra kết nạp thêm vài người uy tín địa phương vào ban chấp hành cho có vẻ đoàn thể của dân. Nhiệm vụ của Phong Trào là tuyên truyền và cho cán bộ đoàn viên học tập chính trị. Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia tổ chức sâu rộng đến xã, phường, kết nạp hầu hết những người tương đối có chút kiến thức. Họ mời đến họp và đưa đơn cho gia nhập. Không ai dám từ chối vì sợ nghi ngờ thiên cộng sản, hay chống đối chính quyền.

Chẳng bao lâu tổng số đoàn viên Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia lên quá cao. Thấy số đoàn viên quá đông đảo, trung ương nảy sanh ý sắp xếp hàng ngũ nhân dân,  lựa tùy số tuổi phân hạng : thanh niên, thanh nữ, thiếu niên, thiếu nữ, phụ lão... Bốn đoàn thể trẻ gồm Thanh niên, Thanh nữ, Thiếu niên và Thiếu nữ mặc đồng phục mổi khi làm lễ hoặc diễn hành, và tùy theo hệ thống hành chánh mà đặt danh xưng. Thí dụ ở quận thì gọi Quận đoàn. Thành phố hay thị xã thì gọi là Thành đoàn. Các đoàn thể thanh niên này chỉ sinh hoạt một thời gian ngắn rồi biến sang Thanh niên,  Thanh nữ Cộng Hòa với đồng phục duy nhất : Bộ âu phục màu xanh nước biển.

Phong Trào Cách Mạng Quốc Gia khởi xướng năm 1955 có 10.000 đoàn viên. Năm 1956 đã lên đến 1.000 000 đoàn viên, và năm 1963 lên đến 2.000 000  đoàn viên. Ngoài ra còn chưa kể đến hàng triệu đoàn viên Thanh niên, Thanh nữ Cộng Hòa, mấy  trăm ngàn đoàn viên Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới bao gồm Thanh nữ bán quân sự do bà Ngô Đình Nhu lãnh đạo.

Sau Thanh niên Thanh nữ Cộng Hòa năm 1961, bà Nhu cho ra đời Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới.

Chủ tịch ở trung ương là bà Nhu, còn các ủy viên trung ương hầu hết là vợ của các Bộ trưởng, Tướng lãnh, Hiệu trưởng các trường nữ trung học ...Chủ tịch Phong Trào Liên Đới ở tỉnh phải là vợ của Tỉnh trưởng, nếu ông Tỉnh trưởng để vợ ở hẳn Sài gòn thì vợ của Phó Tỉnh trưởng thay, cũng như vợ các Trưởng ty, các sĩ quan cấp tá, các chánh án. v.v....đều nằm vào ủy viên tỉnh, đôi khi mới có một vài phụ nữ, thanh nữ uy tín ở địa  phương "được mời" vào thành phần ban chấp hành.

Trong Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới có các ủy viên phụ trách các ngành như:

- Ủy viên Tư pháp
- Ủy viên Gia đình binh sĩ
- Ủy viên Y tế
- Ủy viên Học chánh
- Ủy viên Xã hội
- Ủy viên Thanh nữ bán quân sự, v.v...

Các ban kia sinh hoạt có lệ, mổi tháng làm một vài công việc thăm viếng giúp đỡ đại khái để có việc báo cáo công tác.

Riêng Thanh nữ bán quân sự là một tiểu ban mà bà Ngô Đình Nhu chú trọng nhất và nhân số đông nhất của Phong Trào Phụ Nữ Liên Đới. Chính bà Nhu nhờ tôi soạn thảo kế hoạch tổ chức và huấn luyện về Thanh nữ bán quân  sự võ trang này.
 
Bà Nhu với Thanh nữ Bán Quân sự - Ngô Đình Lệ Thủy trong đồng phục Thanh nữ Cọng hòa

Thanh nữ Bán quân sự đa số do Thanh nữ Cộng hòa chuyển sang. Một số chính cán bộ từ các tỉnh cho vào Sài Gòn thụ huấn quân sự, về huấn luyện lại tại địa phương. Các nữ  cán bộ này có lãnh lương của quốc qia. Thật ra tiếng Thanh nữ bán quân sự đông đão rầm rộ, hình ảnh trên báo chí, nhất là tạp chí "Thế giới Tự do", ai cũng tưởng là đông đão quy mô lắm, nhưng kỳ thật mổi tỉnh cử 5,7 nữ cán bộ về tập cơ bản thao diễn cho Thanh nữ, nữ công chức và nữ sinh các trường trung học để thao diễn trong cuộc lễ. Mỗi khóa huấn luyện quân sự cho Thanh nữ (kỳ thật đa số là nữ công chức và nữ sinh), mổi đoàn viên lên xạ trường tập bắn vài phát phát . Hình ảnh được chụp đăng lên báo chí thật là  xôm, nhưng thực chất chỉ là những hình ảnh để trình diễn, tuyên truyền.

Vì vậy nên ngày đảo chánh 1.11.1963, các Thanh niên, Thanh nữ Cộng hòa, đoàn viên Phong trào Cách mạng Quốc gia này chờ cách mạng thành công mà ra đường vui mừng công kênh chiến sĩ cách mạng đã lật đổ Thủ lãnh của họ.

Trung tướng Trần Văn Đôn

 

 

 

Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2013


TỔNG GIÁM MỤC NGÔ ĐÌNH THỤC:
NHIỀU THAM VỌNG NHỀU CAY ĐẮNG

Văn Thư

Theo lời nhận xét của ông Quách Tòng Đức, từng làm Đổng lý Văn phòng cho Ngô Đình Diệm khi ông này ngồi trên ghế Tổng thống của cái gọi là nền Đệ nhất Cộng hoà Việt Nam, trong gia đình họ Ngô theo Công giáo thời ấy có hai người đã gây nên nhiều tiếng xấu nhất trong dư luận là Trần Lệ Xuân, vợ Ngô Đình Nhu, và Tổng Giám mục Ngô Đình Thục.

Là một người khoác áo nhà tu nhưng Ngô Đình Thục đã có không ít những hành động sai quấy cả trên phương diện đạo đức lẫn chính trị, khiến cho chế độ gia đình trị của hai người em Ngô Đình Diệm - Ngô Đình Nhu rốt cuộc đã bị xoá sổ mau chóng sau chưa đầy một thập niên làm mưa làm gió trên chính trường Sài Gòn.

 
TGM Ngô Đình Thục và lá thư gửi Toàn quyền Decoux xin tha tội cho hai em Diệm và Nhu

Trong số con cái của trọng thần triều Nguyễn Ngô Đình Khả, người con trai thứ hai Ngô Đình Thục chọn riêng một lối đi tôn giáo nhưng không phải vì thế mà không lấm bụi thế sự. Đặc biệt từ sau năm 1945, khi người anh cả Ngô Đình Khôi, một viên quan rất có máu mặt và khét tiếng gian ác của chế độ Nam Triều bị nhân dân trừng trị và phải chết bất đắc kỳ tử, Ngô Đình Thục đã nhận lấy "quyền huynh thế phụ" và vì thế, càng có những ảnh hưởng quyết định đến những xoay vần thế cuộc của dòng họ Ngô Đình. Nhiều nguồn tư liệu đã chứng minh vai trò không thể gì thay thế được của Ngô Đình Thục trong những móc nối với các thế lực ngoại quốc để đưa người em trai của ông ta là Ngô Đình Diệm lên ngôi vị hàng đầu của chính trường Sài Gòn những năm đầu thập niên 50 của thế kỷ trước.

Tổng Giám mục Ngô Đình Thục có tên thánh là Pièrre Martin, sinh ngày 6-10-1897 tại Phủ Cam, Huế. Thuở thiếu thời, Ngô Đình Thục đã được gia đình cho theo học tại trường tư thục Pellerin ở Huế. Năm 12 tuổi (1909), Ngô Đình Thục đã vào học ở Tiểu Chủng viện An Ninh (Quảng Trị) rồi tới tháng 9/1917, vào học ở Đại Chủng viện Phú Xuân thuộc Giáo phận Huế. Có lẽ ngay từ khi đó giới giáo chức cao cấp ở Huế cũng như gia đình họ Ngô đã nhận ra thiên hướng có thể ăn nên làm ra trên con đường tu hành của Ngô Đình Thục nên Chánh xứ Phủ Cam khi đó là Eugène Marie Joseph Allys (thường gọi là Cố Lý, 1852-1936) tháng 11/1919 đã gửi cậu giáo sinh họ Ngô đi du học Trường Truyền giáo Rome. "Con ông cháu cha" nên Ngô Đình Thục ngay ở Rome cũng rất được chăm bẵm.

Cuối năm 1922, Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, bạn đồng liêu của Ngô Đình Khả, cũng là một người Công giáo, sau khi tháp tùng vua Khải Định du ngoạn sang Pháp "như một món hàng thuộc địa và có thể trưng bày ở Hội chợ" (chữ dùng của Nguyễn ái Quốc) đã đến thành Rome. Sẵn quan hệ cũ, Nguyễn Hữu Bài đã mang theo cậu giáo sinh Ngô Đình Thục vào yết kiến Đức Giáo hoàng Piô XI. Sự việc này đã có tác động tốt đến hoạn lộ sau này của Ngô Đình Thục.

Cũng trong năm đó, Ngô Đình Thục đã có được bằng Tiến sĩ Triết học. Ngày 20/12/1925, Ngô Đình Thục đã được phong chức linh mục rồi đi dạy ở Đại học Sorbonne ở Paris, Pháp. Năm 1926, Ngô Đình Thục lấy được bằng Tiến sĩ Thần học và năm 1927 có thêm Tiến sĩ Giáo luật ở Đại học Appolinaire… Tiếp theo, Ngô Đình Thục qua Pháp học tại Institut Catholique de Paris từ tháng 10/1927 đến tháng 6/1929 và đỗ Cử nhân Văn chương.

Trở về Việt Nam năm 1929, Ngô Đình Thục khi đó còn là linh mục, làm giáo sư dòng Thánh Tâm ở Phường Đúc (Trường An) Huế, từ tháng 11/1929. Đến tháng 9/1931, Giám mục Alexandre Chabanon (Giáo, 1873-1936) đã bổ nhiệm Ngô Đình Thục làm giáo sư Đại Chủng viện Phú Xuân, Huế.

Tháng 10/1933, Ngô Đình Thục trở thành Giám đốc Trường Thiên Hựu (Providence), một trường tư thục Công giáo tại Huế. Năm 1935, ông ta còn kiêm luôn cả chức Chủ nhiệm báo Sacerdos Indosinensis. Năm 1938, Ngô Đình Thục được thụ phong Giám mục Giám quản tông Tòa Giáo phận Vĩnh Long… Từ thời điểm đó cho tới cuối những năm 50 của thế kỷ trước, Ngô Đình Thục mặc dù chỉ ở Vĩnh Long nhưng đã tham gia khá tích cực vào các cuộc vận động hành lang cho sự ra đời của một chế độ riêng của gia tộc Ngô Đình.

Giám mục Ngô Đình Thục có ảnh hưởng mạnh mẽ tới Ngô Đình Diệm cũng như những người em khác trong gia tộc Ngô Đình. Chính nhà tu này đã có vai trò rất quan trọng trong việc thiết kế những mối quan hệ hữu hảo với phương Tây thông qua Hồng y Giáo chủ Spellman để cuối cùng Washington đã chọn Ngô Đình Diệm làm con bài chống Cộng chủ đạo ở Việt Nam sau khi quân đội viễn chinh Pháp phải thua chạy khỏi đây sau trận Điện Biên Phủ. Cũng chính Ngô Đình Thục đã thúc đẩy mạnh mẽ quá trình lôi Ngô Đình Diệm từ sân sau của chính trường Sài Gòn để giúp ông thu được 98% (?!) số phiếu ủng hộ của các cử tri miền Nam trong cuộc trưng cầu dân ý giả hiệu ngày 23/10/1955 và nhờ thế, Ngô Đình Diệm đã qua mặt được vua Bảo Đại tiến tới ngôi Tổng thống.

TGM Ngô Đình Thục trả lời báo chí Mỹ tại thủ đô Washington -  
Hồng y Spellman, người được Giám mục Thục vận động để đở đầu cho “lá bài” Ngô Đình Diệm trong chính giới Mỹ vào đầu thập niên 1950’

Một khi em đã làm "vua" thế sự thì anh cũng dễ dàng hơn trong những thăng tiến ở nhà thờ. Ngày 24/11/1960, Ngô Đình Thục đã được bổ nhiệm làm Tổng giám mục Giáo phận Huế. Và ông ta đã tận dụng tối đa ảnh hưởng của ông em Tổng thống để triển khai đủ loại hoạt động kinh tế (thí dụ như khai thác lâm sản, mua thương xá Tax, làm chủ nhà sách Albert Portail...), để kiếm lời bạc tỷ. Thậm chí đã có lúc Ngô Đình Thục dùng lính bộ binh và cả xe bọc thép thực hiện nhiệm vụ bảo vệ và vận chuyển cho các vụ khai thác gỗ rừng trong các tỉnh Biên Hòa, Long Khánh, lấy vật liệu của công và nhân viên chính quyền để xây cư xá Vĩnh Long, tổ chức lễ Ngân khánh (25 năm ngày Ngô Đình Thục được Vatican phong làm Tổng Giám mục) cưỡng ép công chức cao cấp và thương gia nộp tiền… Một vị linh mục ở Sài Gòn thời đó tên là Trần Tam Tỉnh đã thuật lại việc tổ chức mừng lễ Ngân khánh trong quyển biên khảo Thập giá và Lưỡi gươm (Nhà xuất bản Sud - Est Asie, Paris, 1978): "Từ tháng 3/1963, một ủy ban ngân khánh đã được thành lập do chủ tịch quốc hội làm chủ tịch với nhiều vị bộ trưởng và nhân vật tên tuổi làm ủy viên. Người ta tổ chức tại Sài Gòn một bữa tiệc mà mỗi thực khách phải đóng 5.000 đồng. Người ta muốn biến lễ Ngân khánh này thành quốc lễ".

Cách hành xử như thế của Ngô Đình Thục hiển nhiên là đã gây nên nhiều bê bối trong dư luận nhưng Ngô Đình Diệm vẫn cứ đoan chắc rằng ông anh mình không làm điều gì sai quấy vì số tiền kiếm ra dường như đã được dùng vào việc nuôi sống Trường Đại học Đà Lạt do chính Ngô Đình Thục lập ra cũng như để đáp ứng các nhu cầu khác của nhà thờ. Thật nực cười! Không chỉ trục lợi kinh tế mà Tổng Giám mục Ngô Đình Thục còn tạo nên những lý do chính trị tai hại đối với chế độ Diệm - Nhu. Nhiều nguồn tư liệu còn lại tới hôm nay cho rằng, Ngô Đình Thục khi ở trên đỉnh cao danh vọng tôn giáo đã bị hoang tưởng về quyền lực của mình cũng như của gia tộc mình và đã đánh đồng thần quyền với thế quyền. Là anh của Tổng thống Diệm, Ngô Đình Thục nghĩ rằng ông ta, như linh mục Trần Tam Tỉnh nhận xét "đã hóa thành trí não tuyệt vời của chế độ. Người ta tìm đến ông để xin xỏ ân huệ, đặc quyền. Giám mục làm như là hiện thân của giáo hội, cũng như ông em là hiện thân của Nhà nước…".

Một nhân chứng khác ở thời đó đã ghi chép lại về thời miền Nam nằm dưới sự trị vì của chế độ gia đình trị của dòng họ Ngô Đình như sau: "Các linh mục thuộc tập đoàn Ngô Đình Diệm đã ra sức thao túng, bóc lột, cướp tài sản của dân chúng. Có những linh mục bắt các quận trưởng phải nộp tiền bạc, để làm cái này, làm cái kia, nếu ai không tuân lệnh, họ sẽ báo cáo xấu lên tổng thống mà bị mất chức hoặc bị ngồi tù. Vì muốn Ngô Đình Thục được làm Hồng y, vây cánh Ngô Đình Diệm đã dùng mọi thủ đoạn để gia tăng giáo dân, trong đó có việc cưỡng bách sĩ quan, binh sĩ và dân chúng theo Thiên Chúa giáo, ai không theo bị chúng vu khống là cộng sản rồi bắt bỏ tù. Họ khủng bố Cao Đài, Hòa Hảo, tận diệt Quốc Dân đảng và Đại Việt…".

Viên sĩ quan dù cao cấp về sau trở thành tướng nổi loạn Nguyễn Chánh Thi đã nhận xét về sự lộng hành của một số linh mục thời Diệm - Nhu: "Cứ hầu như mỗi một tỉnh của miền Nam, nhất là tại miền Trung, có một linh mục có quyền sinh sát trong tay mà chả ai đả động đến, vì đằng sau họ là sức mạnh chính quyền. Họ còn lộng hành hơn là nhận đơn kiện cáo của con chiên, rồi phê vào đơn, đưa đến tỉnh trưởng hay quận trưởng, bảo phải xử theo ý của linh mục A, linh mục B, không thì mất chức. Một số linh mục dưới chế độ Ngô Đình Diệm, họ sống như các ông vua của một xứ xưa kia!...".

Cũng theo linh mục Trần Tam Tỉnh, đáp lại các lời chỉ trích, giám mục Thục nói với ICI, tạp chí Công giáo số 15/4/1963, rằng "Trên bàn giấy của tôi chồng chất cả lô đơn xin tôi can thiệp cho họ ơn này, ơn nọ, khổ thay thường chỉ là thế tục. Tôi không thể dửng dưng được trước lời kêu gọi của họ! ở vào địa vị của tôi các ông sẽ xử sự như thế nào?". Giả dối đến thế là cùng!   

Tổng Giám mục Ngô Đình Thục cũng là một người mang nặng tư tưởng phân biệt tôn giáo. Thậm chí không ít người ở miền Nam khi đó còn cho rằng, Tổng giám mục Ngô Đình Thục đã nuôi tham vọng Công giáo hóa toàn bộ cái gọi là nền đệ nhất cộng hòa. Chính những lùm xùm xung quanh lễ Ngân khánh năm 1963 đã châm ngòi lửa cho những biến cố Phật giáo, gây nên mối nguy hiểm chí tử đối với chế độ tay sai này của Mỹ ở Sài Gòn. Mọi sự quá mù ra mưa tới mức Vatican cũng lên án chính phủ Diệm - Nhu và quyết định rút Tổng Giám mục Ngô Đình Thục ra khỏi Việt Nam.

Nhận thức được hiểm họa này, Washington đã không khoanh tay thúc thủ và quyết định gây sức ép để loại bỏ Ngô Đình Thục ra khỏi trung tâm quyền lực ở Sài Gòn. Ngày 20/8/1963, Nhà Trắng đưa Cabot Lodge sang làm đại sứ ở Sài Gòn với những chỉ thị mang tinh thần khác hẳn trước đây… Giờ  cáo chung đã điểm đối với quyền lực chính trị của gia tộc Ngô Đình. Trước đó khoảng 6 năm (1957), tại cố đô Huế đã xảy ra một điềm xấu: sét đánh đúng ngôi mộ của ông Ngô Đình Khả, từng được xây cất rất kỹ lưỡng bởi một lực lượng công binh tinh nhuệ nhất của chế độ Sài Gòn bằng những vật liệu có chất lượng tốt nhất...

Tháng 9/1963, Ngô Đình Thục rời Sài Gòn tới Vatican để tìm cách vớt vát uy tín cho chế độ Diệm - Nhu trên trường quốc tế (cũng là đúng ý Mỹ muốn ông ta đi cho "khuất mắt trông coi"). Tuy nhiên, mọi sự đã muộn màng. Bản thân Ngô Đình Thục cũng bị Vatican tước bỏ chức vụ tôn giáo.

Cuộc đảo chính ngày 1/11/1963 đã kết liễu tính mạng của anh em Ngô Đình Diệm, Ngô Đình Nhu, Ngô Đình Cẩn… Ngô Đình Thục đành phải sống tha phương trong cảnh khá là bần hàn và mãi tới sau năm 1975, mới được Vatican cho phục chức. Thế rồi Tổng Giám mục Ngô Đình Thục về hưu ở Mỹ và phải sống tại một Viện dưỡng lão Công giáo thuộc tiểu bang Missouri cho tới khi trút hơi thở cuối cùng ngày 13/12/1984.

Văn Thư

[Source: sachhiem.net – 9/2008]

 

Thứ Bảy, 16 tháng 3, 2013


NGHĨ VỀ HAI DÒNG HỌ THÔNG GIA HUẾ
 

Nguyễn Hạnh Hoài Vy

Hai Thượng thư Nguyễn Hữu Bài (trái) và Ngô Đình Khả

Hai dòng họ Nguyễn Hữu và Ngô Đình nhờ vào mối liên hệ thông gia tôn giáo-chính trị (Nguyễn Thị Giang, con gái của Nguyễn Hữu Bài kết hôn với Ngô Đình Khôi) đã đưa dòng họ Ngô Đình bồng bềnh với quyền lực đến hơn nửa thế kỷ, mang một nét độc đáo vượt trội hơn cả, bao gồm các đặc tính sau:
 
 - dòng dõi vốn xuất thân từ khố rách áo ôm, nhờ 'rửa tội' mà mấy đời con cháu no cơm ấm cật.
 - cung cúc phục vụ cho ngoại nhân (thế quyền lẫn giáo quyền).
 - tâm chất thì bán nước cầu vinh, nhưng lúc nào cũng cố mang chiếc áo quốc gia, dân tộc.
 - đạo đức qua bộ mặt cuồng tín tôn giáo.
-      cả hai đều phải "vào ra" cánh cửa các nhà tu Công giáo mà tạo quyền thế về sau.

 Theo "Nhân Vật Giáo Phận Huế", tập I (tác giả Lê Ngọc Bích, tài liệu lưu hành nội bộ), cho rằng "Nguyễn Hữu Bài vốn nguyên quán Thanh Hóa, là hậu duệ của Nguyễn Trãi" (trang 110). (Theo bảng phụ chú "Thế hệ dòng họ" (trang 111), Hoài Vy ghi nhận có rất nhiều dấu hỏi cần phải được đặt ra trên phương diện sử liệu về mối liên hệ dòng họ của ông Bài với Nguyễn Trãi, nhưng đây là một vấn đề khác cần được trình bày ở một bài viết khác).

Phêrô Giuse Nguyễn Hữu Bài, sinh ngày 18-9-1863 tại làng Cao Xá, phủ Vĩnh Linh, Quảng Trị. Thời thiếu niên, cha mất sớm, năm lên 10 tuổi mẹ ông xin linh mục Gioan Châu bảo trợ vào tiểu chủng viện An Ninh. Chính Linh mục Caspar (tên Việt: Lộc) có lần khen "Bài là một thanh niên tuấn tú, tương lai thành tài, đạt đức." (trang 112), sau đó gời ông đi học chủng viện Pénang (Mã Lai).

Học xong, Bài về nước vào đúng lúc hòa ước Patenôtre Việt-Pháp vừa được ký kết, Bài được giới thiệu làm thừa phái Nha Thương Bạc (chức nhỏ tùng sự tại cơ quan ngoại giao của triều đình, việc chính là làm thông ngôn).

Năm 1887, ông được cử đi đánh giặc "thổ phỉ" miền thượng du Bắc kỳ trong 5 năm (sách đd, trang 113). Đây mới là chỗ có vấn đề! Giữa lúc thực dân Pháp tác oai tác quái trên khắp lãnh thổ Việt Nam, giai tầng "phục dịch ngoại nhân bản địa" thăng quan tiến chức, trong lúc các phong trào Cần Vương yêu nước nổi lên kháng chiến khắp nơi.
Ở Bãi Sậy có Nguyễn Thiện Thuật, Tạ Hiện, Phạm Bành.
Ở Thanh Hóa có Đinh Công Tráng với căn cứ Ba Đình.
Ở Bắc Giang có Hoàng Hoa Thám với chiến khu Yên Thế.
Ở Hưng Sơn (Hà Tây) có Phan Đình Phùng, Cao Thắng... Cao trào kháng chiến bùng nổ năm 1887, là kết quả một chuổi tiếp nối từ "Sau biến cố 1885, tầng lớp "ký lục" kiêm "thông sự" được đeo thẻ bài ở Tòa Khâm, cái giai tầng được sự đỡ đầu bằng đề cử của các giáo sĩ ở ngoại quốc. Họ thành lập giai tầng trung gian bản xứ thay thế giai tầng Văn Thân nho sĩ và thường biện minh cho sự hợp tác với Pháp qua chiêu bài "thánh chiến" lập tân trào." (Vũ Ngự Chiêu, sách đd, tập 2, trang 484)

 Ngược lại với cảnh tượng nhốn nháo trên, hàng hàng lớp lớp sĩ phu trên lãnh thổ phía Bắc, các anh hùng kháng Pháp nổi lên khắp nơi, thì ông Nguyễn Hữu Bài lại được triều đình (tất nhiên là qua mật lệnh của Pháp) được cử đi đánh dẹp "thổ phỉ" (theo Lê Ngọc Bích, sách đd).

Thổ phỉ thật ra là một lối chơi chữ để tránh phải gọi là các anh hùng nghĩa quân chống Pháp, một lối chơi chữ 'xách mé' vô trách nhiệm, không biết hổ thẹn với lương tâm, không sợ phải mang tội với lịch sử dân tộc. Biết bao nhiêu anh hùng kiểu 'thổ phỉ' này đã bị bọn người bản xứ được "rửa tội" và đeo "thánh giá" vào người gài bẫy, giết hại để lập công với nước Đại Pháp !

 Và cũng nhờ các công trạng đó, Bài được thăng tiến từ Bố chánh Thanh Hóa rồi ngóc đầu lên tới Thị lang Bộ Lại, Thượng tá Cơ Mật, Tham tri Bộ Hình, sau cùng là Thượng thư triều đình.

Năm 1922, được đi sứ sang Pháp, tháp tùng vua Khải Định với chức Hộ giá Đại thần, Bài ghé thăm kinh đô của con dân Chúa là Vatican, được Giáo hoàng Piô XI cho quỳ xuống hôn chân, tâm hồn Bài bốc lên tận mây xanh, làm bài thơ ca ngợi "Nước Thánh" như sau:

"Nghe rằng La mã, nước văn minh,
Rằng mới qua xem thấy hiện hình.
Cung điện Giáo hoàng còn vị trí,
Thành trì Ý quốc đã kinh dinh.
Thần đồ, từ vũ, nên kỳ tuyệt,
Cổ tích lâu đài thật khủng kinh.
Yết kiến mông ơn chầu Thánh tọa,
Trăm phần danh giá, bội thêm vinh."

("Lịch Sử Giáo Phận Huế", 'Vịnh đi La mã', trang 116. Theo chú thích của Lê Ngọc Bích, "thần đồ": tượng ảnh, "từ vũ": đền đài ).

 Bài thơ 'xuất thần' ca tụng Vatican này đáng được Giáo hội Công giáo Việt Nam khắc bảng vàng để ghi nhớ tấm lòng sắt son của những kẻ biết "hiếu nghĩa".

Bản chất của Bài rất đáng được xếp loại vào giai tầng "trung gian" mà Vũ Ngự Chiêu đã mô tả rất cụ thể : "Vào thời điểm 1885, đây không còn là những lời cáo buộc vô bằng chứng nữa. Vì lý do này hay lý do khác, đa số tín đồ Ki-tô đã bị lọt vào vòng ảnh hưởng của Pháp, và một thiểu số khác – vì cuồng tín hay vì danh lợi bản thân, hoặc cả hai – tích cực hợp tác hoặc phục vụ quân viễn chinh Pháp. Trên khắp chiến trường từ Bình Thuận ra tới thượng du Bắc Việt, đại đa số thông sự, nho, lính tập, điềm chỉ, dẫn đường cho Pháp là giáo dân Ki-tô." (sách đd, tập 2, trang 456).

 Và danh lợi muốn bền vững cũng cần sự kết hợp gắn bó: "Ông Nguyễn Hữu Bài có một người bạn đồng liêu lớn hơn ông chừng một con giáp: ông Ngô Đình Khả (1857-1923). Hai vị đều là lương đống của triều đình, đồng hương, đồng đạo và đồng chí. Mỗi vị có những hoạt động khác nhau, nhưng hỗ trợ nhau." (Theo Lê Ngọc Bích, sách đd – tập I, trang 125).

Khá khen cho cụ Lê Ngọc Bích dùng chữ để mô tả khá cụ thể: hai họ có rất nhiều cái "đồng", nhưng đồng chí mang một nét "độc đáo" nổi bật. Ông Khả và ông Bài đã đồng chí ở những điểm nào ?

Trước hết, hãy nhắc lại tông tích của ông Khả là ai? – Micae Ngô Đình Khả sinh năm 1857 nguyên quán làng Đại Phong, huyện Lệ Thuỷ, tỉnh Quảng Bình. Thuở nhỏ, Khả được cha là Giacôbê Ngô Đình Niêm hay cho đi giúp lễ với một vị linh mục Pháp ở họ đạo Mỹ Duyệt Hạ (tổng Thạnh Xá, Lệ Thuỷ). Năm 1870, Khả được Linh mục Caspar (Lộc) cho đi học chủng viện Pénang. Học được 8 năm, đến năm 1878, nhưng "không thấy ơn Chúa gọi", nên lấy vợ cho ấm thân. Lấy vợ lần thứ nhất với Madelêna Chĩu, bà này qua đời, lấy vợ lần nữa (năm 1889) với Anna Phạm Thị Thân. (Theo Lê Ngọc Bích, sách đd, trang 105-109, tập I).

 Chúng tôi chưa biết có tài liệu nào nói đến việc ông có con cái gì với bà Chĩu hay không, riêng với bà Thân, đã đẻ ra một loạt quý tử Ngô Đình, có người về sau làm tới tổng thống. Cũng như Bài, ông Khả đã "vào ra" chủng viện Pénang, làm thông ngôn, Cơ Mật viện triều đình, quan hàm Chánh Tứ Phẩm, thăng đến Thượng Thư Bộ Công. Nét giống nhau độc đáo nữa, là 12 năm sau (1895) kể từ ngày Phêrô Giuse Bài ra Bắc trừng phạt "thổ phỉ", Micae Khả được cử làm Phó tướng cho Nguyễn Thân ra Bắc đánh dẹp nghĩa quân "phản loạn" Cần Vương ở Vụ Quang (căn cứ kháng chiến của Phan Đình Phùng). Khả thắng trận, nhưng chưa hả dạ, đào mã lấy xác cụ Phan trộn thuốc súng làm đạn, bỏ vào súng đại bác bắn cho tiêu xác trên sông Lam giang.

Đây là "trò chơi" độc đáo nhất của "cụ" Khả, đúng là "Đức lớn tài cao, trí có thừa; Đại thần Thị vệ tiếng khi xưa..." ('Nhân Vật Giáo Phận Huế', Lê Ngọc Bích, sách đd, trang 109).

Cái tâm chất "trí có thừa" này hẳn là một nhiễm-sắc-thể di truyền khó thoát : các hậu duệ của ông Khả như Ngô Đình Khôi – đã từng nổi danh với cách dùng mãnh sành và nước lạnh để tra khảo những người làm cách mạng lúc ông làm Tổng đốc Quảng Nam, hay "cụ Ngô" hồi làm quan lớn cũng từng dùng đèn cầy hơ nóng hậu môn tù nhân ngay lỗ khoét của ghế ngồi để tra khảo tù nhân cách mạng. Có người đã cho rằng, một kẻ làm đến tổng thống, khi đã ra lệnh tấn công chùa chiền, bắt bớ hàng ngàn tăng ni, thì việc ác nào cũng có thể làm. Hậu duệ Ngô Đình Cẩn với 'Chín Hầm' ở gần Phủ Cam, Huế là nơi đã bức tử, hại sinh biết bao sinh mạng vô tội; hay một đứa con khác đã đi tu tới chức Giám mục rồi, mà vẫn đeo đẳng tinh thần:

"Ngô Đình Thục háo danh thèm chức tước,
Tiếm loạn quyền nên cả nước khinh khi,
Tu hành gì mà gian ác sân si!
Thế mà vẫn nghiễm nhiên làm Giám mục..."

(Nguyễn Mạnh Quang, 'Thực Chất của Giáo Hội La Mã',  tập 2, tác giả xb, trang 571).

Nhận định về công trạng của hai đại dòng họ Nguyễn Hữu-Ngô Đình đã đóng góp cho thế quyền (Đại Pháp) và giáo quyền (Giáo hội Công giáo Vatican) lớn tới đâu, chỉ có trong nội bộ của hai thế lực này biết thôi, nhưng có một câu vè trong dân gian ở Huế về hai nhân vật này   "Đày vua có Khả, đào mã có Bài" vẫn còn là dấu hỏi. Dấu hỏi bởi, theo các tài liệu lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam viết thường là ca tụng hai nhân vật "độc đáo" này hết lời, và tất nhiên câu vè dân gian trên được sửa lại:

 "Phế Vua không Khả, Đào mã không Bài" ("Nhân Vật Giáo Phận Huế", sách đd, tập I, trang 115) để ám chỉ tới lập luận của chính họ: Bài đã từng "lên tiếng" ngăn chận, dù không thành, Khâm sứ Mahé ngang ngược bắt khai quật lăng Vua Tự Đức lấy vàng ngọc châu báu vào năm 1907, dưới triều Vua Duy Tân. Ông Thượng Ngô Đình Khả "phản đối" Pháp trong âm mưu truất phế và đày Vua Thành Thái ('cũng chỉ lên tiếng thôi mà không thành'!). Cho tới hôm nay, các nhà viết sử ở nước ngoài chưa thấy ai nói rõ điều này một cách rạch ròi cho thỏa lòng dân Huế. Đến ngay cả tác giả Hoàng Trọng Thược trong "Hồ Sơ Vua Duy Tân" (Thanh Hương xuất bản 1984, Hoa Kỳ) cũng dùng tài liệu cũ vốn thiếu phần chính xác để xác nhận việc Ngô Đình Khả không chịu ký tờ biểu vua thoái vị (trang 410). Nhưng với vai trò "Thị vệ" (đúng nghĩa là làm nhiệm vụ cảnh sát và báo cáo) báo cáo mọi hành vi, nhất cử nhất động của Vua Thành Thái lên quan Đại Pháp, thì sự việc ông Khả có lên tiếng "phản đối' âm mưu "truất ngôi, đày vua" có thật hay không cũng chẳng có giá trị thuyết phục nhân dân Việt thay đổi cái nhìn về bản chất và hành động của Bài và Khả.

 Theo nhận xét qua phương pháp phân tích sử liệu của Vũ Ngự Chiêu ('Các Vua Nhà Nguyễn', tập 2), chúng ta thấy có sự mâu thuẫn giữa Giáo hội Công giáo (bản xứ + truyền giáo) và chính quyền thực dân về việc truất phế Thành Thái. Báo 'L'Avenir de Tonkin' (có cổ phần của Hội Truyền giáo) đã báo cáo về Paris rằng: "Có vẻ Thành Thái đã rửa tội trong một cơn bệnh nặng trước khi lên ngôi (1884). Hội Truyền giáo chẳng bao giờ chống lại vua; vài năm trước Hội đã vận động để cắt cử một giáo dân Ki-tô, Ngô Đình Khả, vào chức vụ thân cận cho phép hành xử trên vua những ảnh hưởng trực tiếp và liên luỹ..." (trang 583).

 Quan điểm của chính quyền thực dân Pháp (qua đại biểu Khâm sứ F. Levecque, có khuynh hướng Tam Điểm ('Freemason' – vốn không ưa Công giáo Rôma) không quan tâm lắm tới một ông vua bù nhìn có "rửa tội" hay không, mà là một ông vua tương đối "tử tế", biết vâng lời nước Pháp và quan Đại Pháp.

Trong lúc Hội Truyền giáo và nhóm Ki-tô thì thích một ông vua đã rửa tội hơn, và điều quan trọng nhất là họ có khả năng kiểm soát và kiềm chế ông vua này không. "Ngô Đình Khả – người được giao chức quan Thị vệ và an ninh Cấm thành – bị nghi là gieo rắc những ảnh hưởng tai hại trên vua." (Vũ Ngự Chiêu, tập 2, sách đd, trang 585). Trong lá thư ngày 15/8/1907, Khả vận động 154 học sinh Quốc Tử Giám gởi Khâm sứ Levecque tỏ lộ rằng: "Yêu cầu Pháp ban cho họ một ông vua mà chỉ nguyên sự hiện diện đủ trấn an tinh thần binh sĩ và các liệt thần của đế quốc." (sách đd, trang 585). Do đó, vấn đề Khả dù có chống việc "phế ngôi, đày vua", không phải vì ông ta thương xót gì triều đình nhà Nguyễn, lo cho sơn hà xã tắc nước Nam, mà do điều đó có phù hợp với mưu đồ hợp tung giữa Bài và Khả, có được lòng Giáo hội Mẹ, quyền lợi nước Đại Pháp và khả năng khuynh loát triều chính hay không ? Câu trả lời : ngày 3/9/1907, Nguyễn Hữu Bài, cùng Phủ Phụ Chính (tất nhiên trong đó có Khả) chấp nhận giải pháp của nước Đại Pháp, và hơn một tháng sau (17/10/1907), Vĩnh San (hoàng tử thứ hai mới 10 tuổi) lên ngôi, Thành Thái phải rời Huế đi Bà-rịa, mở đầu cho cuộc đời tù đày long đong viễn xứ của ông vua giả điên này.

Một tài liệu khác trong "Lịch Sử Phật Giáo Huế" của Thượng tọa Thích Hải Ấn và Hà Xuân Liêm (nhà xb TP/Hồ Chí Minh 2000) lại trưng ra những chứng cớ đơn giản hơn, khẳng quyết Nguyễn Hữu Bài là kẻ đã đồng ý đào mã Vua Tự Đức : "Nguyễn Hữu Bài là người đã ký giấy để bọn thực dân Pháp quật lăng Vua Tự Đức. Điều này có thể không sai, bởi vì ông đã nói với ông A. Delvaux là "nước Pháp đã mở rộng nền bảo hộ của họ một cách "cực chẳng đã", nghĩa là điều nước Pháp không muốn, họ vẫn bị đẩy bởi sự vi phạm không ngừng các hiệp ước do triều đình Vua Tự Đức gây nên." (dẫn theo LSPGH, trang 355-356 A. Delvaux, 'Quelques précisions sur une période troublée d'histoire d'Annam' – Bulletin des Amis du Vieux de Hue số 3, năm thứ 28). Đây là lối luận định - tư tưởng đã như vậy thì hành động không thể khác. Riêng Ngô Đình Khả "là người đã ký giấy cho bọn thực dân Pháp đày Vua Thành Thái sang Réunion. Dân Huế còn truyền tụng "Đày vua ông Khả, đào mã ông Bài"" (trang 356). "Lịch Sử Phật Giáo Huế" đã kết luận về con người ông Khả rằng : "Mấy chữ sau đây của ông Nguyễn Đình Hòe nói về ông Ngô Đình Khả, mà Louis Sogny trích lại trong bài viết của ông ở BAVH (Bulletin des Amis du Vieux de Hue), tưởng là quá đủ: "...un grand serviteur de la France..." Cho nên đối với nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, nhất là dân Huế, thì ông Ngô Đình Khả đã bị "tombé dans l'oubli depuis longtemps" như lời ông Nguyễn Đình Hòe đã nói vào đầu thế kỷ 20 này là điều hiển nhiên vậy." (LSPGH, trang 357).

 Đúng vậy, cái 'tên' Ngô Đình Khả – "một đại-tôi-tớ cho nước Pháp" đã bị tiêu trầm trong lòng người dân Huế một thời gian dài đằng đẳng, nhưng dòng họ Ngô Đình chỉ thật sự hoàn toàn "xóa sổ" vào ngày 13/12/1984, lúc Tổng Giám mục Ngô Đình Thục (con trưởng nam cuối cùng của dòng họ Ngô Đình) lìa trần trong tình trạng "tù đày" (captivity) cô độc sau một thời gian dài công khai chống lại Vatican. Còn một chút ảo vọng khác là Hồng y Nguyễn Văn Thuận (cháu ngoại của Ngô Đình Khả (*),  trong niềm mơ ước hoang tưởng của một số người Công giáo hoài Ngô ôm ấp viễn mộng một ông Giáo hoàng Việt Nam đầu tiên – ngày 16/9/2002 cũng đã "về với Chúa". Ngoài những "hậu duệ" bàng dân thiên hạ như : Nguyễn Văn Lục, Thoma Thiện, Lữ-Giang-Tú-Gàn còn tỏ chút "Đôi dòng ghi nhớ", và những bùi ngùi, luyến thương công khai hoặc âm thầm khác; từ đây không biết còn có những tung hô "dựng đền tạc tượng" dòng họ Ngô Đình nữa hay không – cũng chỉ vì những bâng khuâng tiếc nuối, mơ tưởng về đống của phù vân đã tan biến theo dòng đời?

 
Nguyễn Hạnh Hoài Vy
(Thu 2002 - hồi tưởng về 1.11.63)

[(*) Trích sau đây là một đoạn qua bản tin "Hồng y Nguyễn Văn Thuận từ trần" của website ở Paris tháng 10 năm 2002 : "Theo thông tín viên của chúng tôi ở Roma, cách đây vài tháng, em trai của hồng y, ông Nguyễn Văn Tuyên, đã từ trần tại Houston, Texas. Ông Tuyên sống độc thân sau khi li dị, chết đơn độc không ai hay. Nhiều ngày sau, bạn bè mới phát hiện khi thấy đàn quạ bay vần vũ trên nóc nhà"].